2024-04-13
Thế giới nguy hiểm của Joe Biden
(Francis P. Sempa, RealClear Politics, 13/4/2024)
Trong ba năm qua, Taliban quay trở lại nắm quyền ở Afghanistan, Nga xâm lược Ukraine, Hamas xâm lược Israel, Trung Quốc gia tăng áp lực lên Đài Loan, quan hệ đối tác Trung-Nga được củng cố, những kẻ khủng bố Houthi tàn phá hoạt động vận chuyển hàng hải trên Biển Đỏ, Iran tiến gần hơn đến việc giành được quyền kiểm soát vũ khí hạt nhân, Triều Tiên tăng cường năng lực tên lửa liên lục địa, Trung Quốc và Nga hiện đại hóa lực lượng hạt nhân của họ, và những người nhập cư bất hợp pháp tràn ngập biên giới phía nam Hoa Kỳ.
Chính quyền Biden đã tiến hành một cuộc rút quân không chuyên nghiệp khỏi Afghanistan, khiến một số người Mỹ và nhiều đồng minh Afghanistan của chúng ta phải trả giá bằng mạng sống. Biden đã cung cấp viện trợ cho Ukraine và sử dụng những lời lẽ có nguy cơ leo thang chiến tranh Ukraine thành một cuộc chiến tranh rộng lớn hơn trên thế giới hoặc ở châu Âu. Ông đã thực hiện một chính sách đối với Trung Quốc, kết hợp “sự can thiệp” với việc tiếp tục một số chính sách mang tính đối đầu hơn là Donald Trump. Chính sách tổng thể về Nga của Biden đã củng cố quan hệ đối tác chiến lược Trung-Nga. Trước các cuộc tấn công của Houthi vào các tàu chở hàng, những phản ứng riêng rẽ của ông không ngăn chặn được những cuộc tấn công đó. Việc chính quyền thúc đẩy lệnh ngừng bắn ở Gaza đã cản trở nỗ lực của Israel nhằm đánh bại Hamas. Phản ứng của họ đối với việc Iran tìm kiếm vũ khí hạt nhân là cố gắng khôi phục thỏa thuận hạt nhân còn thiếu sót. Nó đã thúc đẩy việc “kiểm soát vũ khí” nhiều hơn đối với Nga ngay cả khi việc Trung Quốc vẫn gia tăng sản xuất hạt nhân. Và chính quyền đã tạo điều kiện thuận lợi (cho những việc đó) hơn là ngăn chặn sự nhập cảnh bất hợp pháp của hàng triệu người vào đất nước chúng ta.
Không có tổng thống và không có chính quyền nào có thể kiểm soát các sự kiện trên khắp thế giới. Theo lời của Otto von Bismarck, điều tốt nhất mà bất kỳ chính khách nào cũng có thể làm là “đi theo” dòng sự kiện và “lèo lái chúng” theo hướng có lợi cho đất nước của mình. Chính quyền Biden dường như bất lực trong việc lèo lái các sự kiện theo hướng có lợi cho đất nước và bảo vệ lợi ích quốc gia của chúng ta. Họ theo đuổi các mục tiêu chung và các giải pháp đa phương để khắc phục “biến đổi khí hậu”, bao gồm giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch và thúc đẩy xe điện. Họ đã thể chế hóa “Đa dạng, Công bằng và Hòa nhập” (DEI) trong các dịch vụ vũ trang của chúng ta, điều này đã làm giảm việc tuyển dụng và thúc đẩy “sự tỉnh táo” gây phương hại đến sứ mệnh của các lực lượng vũ trang của chúng ta. Họ đã đề xuất một ngân sách quốc phòng nhằm cắt giảm chi tiêu theo giá trị thực tế bất chấp sự tham gia của chúng ta vào hai cuộc chiến tranh và một cơn bão đang tập trung ở Tây Thái Bình Dương. Họ đã thu hẹp lực lượng hải quân của chúng ta vào thời điểm Trung Quốc tiếp tục chế tạo tàu chiến, bao gồm cả mẫu hạm.
Những người ủng hộ Biden sẽ phản bác rằng tổng thống đã củng cố NATO trước sự xâm lược của Nga bằng cách mời Phần Lan và Thụy Điển tham gia liên minh. Nhưng việc tăng quy mô của một liên minh không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với việc làm cho liên minh trở nên mạnh mẽ hơn. Sự mở rộng NATO - và đây không chỉ là lỗi của Biden - chỉ đơn thuần là tăng diện tích địa lý mà Mỹ cam kết bảo vệ với ít quân hơn, đồng thời bổ sung thêm các đồng minh liên tục không đáp ứng được nhu cầu phòng thủ của chính họ, chứ chưa nói đến nhu cầu của liên minh.
Về cơ bản hơn, có rất ít ý nghĩa rằng trong đội ngũ an ninh quốc gia của Biden có những nhà tư tưởng chiến lược nhìn thế giới bằng những phân tích địa chính trị lạnh lùng, cứng rắn và đánh giá cao tầm quan trọng sống còn của nước Mỹ chứ không phải các lợi ích ngoại vi. Antony Blinken, Jake Sullivan và Lloyd Austin thiếu sức hấp dẫn của các nhà hoạch định chính sách an ninh quốc gia gần đây và xa hơn một chủt. Không có những George Kennan, Dean Acheson, John Foster Dulles, Henry Kissinger, Jim Schlesinger, Jean Kirkpatrick, George Shultz, Caspar Weinberger, Richard Pipes, Zbigniew Brzezinski, Mike Pompeo hay Elbridge Colby trong chính quyền Biden. Và sự hiểu biết của Biden về chính trị quốc tế vẫn mờ nhạt so với Eisenhower, Nixon và George H.W. Bush. Hãy nhớ rằng chính Robert Gates, cựu Giám đốc CIA và Bộ trưởng Quốc phòng trong cả chính quyền Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ, đã nhận xét nhiều năm trước khi Biden còn là phó tổng thống rằng Biden “đã sai lầm trong hầu hết mọi vấn đề chính sách đối ngoại và an ninh quốc gia lớn trong 4 thập kỷ vừa qua.” Ba năm qua đã xác nhận tính chính xác trong đánh giá của Gates.
Một số đoạn đầu tiên trong Chiến lược An ninh Quốc gia năm 2022 của chính quyền nêu bật những thách thức về “biến đổi khí hậu, mất an ninh lương thực, bệnh truyền nhiễm, khủng bố, thiếu năng lượng, [và] lạm phát”. Chiến lược khẳng định: “Những thách thức chung này không phải là những vấn đề thứ yếu so với địa chính trị. Chúng là cốt lõi của an ninh quốc gia và quốc tế và phải được đối xử như vậy.” Nếu những vấn đề này là “cốt lõi” của lợi ích an ninh quốc gia của chúng ta, thì cạnh tranh giữa các cường quốc chỉ là để có lợi ích ngang bằng hoặc kém hơn. Vấn đề nằm ở đó. Chính sách đối ngoại là ưu tiên cho lợi ích quốc gia một cách cụ thể. Chính quyền Biden ưu tiên hệ tư tưởng hơn địa chính trị.
Nếu có một thứ gọi là Học thuyết Biden thì đó là việc chính quyền định hình chính sách dựa trên những gì họ coi là cuộc đấu tranh sinh tồn giữa “dân chủ” và “độc tài”. Đây là thành phần tư tưởng trong chính sách an ninh quốc gia của nước này, kết hợp chủ nghĩa Wilsonianism (dân tộc tự quyết) với chủ nghĩa thức tỉnh (wokeism). Chiến lược an ninh quốc gia của Biden đặt Mỹ vào thế đối đầu với cả Nga và Trung Quốc. Nó tránh tiến hành kiểu ngoại giao tam giác của thời kỳ Nixon-Reagan đã giúp chúng ta giành chiến thắng trong Chiến tranh Lạnh. Các nhà hoạch định chính sách an ninh quốc gia của Biden không có ý nghĩa gì khi họ đánh giá cao sự khôn ngoan lâu dài của địa chính trị cổ điển, tầm quan trọng trong chính trị toàn cầu của lục địa Á-Âu và sự cần thiết của Hoa Kỳ để duy trì quyền lực tối cao trên biển. Ngân sách quốc phòng được đề xuất vào năm 2024 sẽ thực sự thu hẹp hải quân Mỹ xuống còn 13 tàu chiến. Alfred Thayer Mahan và Theodore Roosevelt chắc hẳn đang trở mình dưới nấm mồ của mình.
Nhìn thế giới qua lăng kính tư tưởng “dân chủ” và “độc tài” sẽ hạn chế sự linh hoạt của Mỹ và làm mất đi sự kiềm chế về địa chính trị. Nó lôi kéo Hoa Kỳ vào các cuộc xung đột ngoại vi phù hợp với thế giới quan hệ tư tưởng của chính quyền. Nó phớt lờ lời khuyên khôn ngoan của John Quincy Adams là đừng đi ra nước ngoài tìm kiếm quái vật để tiêu diệt. Nó có thể làm cạn kiệt nguồn lực của Mỹ và làm chúng ta mất tập trung vào những thách thức và mối đe dọa quan trọng hơn đối với lợi ích của chúng ta.
Sau đó là những yếu tố không thể định lượng được về độ tin cậy và sự tôn trọng của người Mỹ. Đó là nơi lực hấp dẫn xuất hiện. Các nhà lãnh đạo nước ngoài - cả đồng minh và đối thủ - phải sợ sức mạnh của Mỹ, tin vào lời nói của Mỹ và thấy rằng các nhà lãnh đạo Mỹ sẽ làm bất cứ điều gì cần thiết để bảo vệ đất nước này và thúc đẩy lợi ích của nước này. Những người theo chủ nghĩa toàn cầu hóa chế giễu khái niệm “Nước Mỹ trên hết” nhưng lại không thấy rằng các nhà lãnh đạo nước ngoài là người Nga trên hết, người Trung Quốc trên hết, người Đức trên hết, người Pháp trên hết, v.v. Đó là cách thế giới vận hành. Đó là lý do tại sao những thất bại được kể lại trong đoạn mở đầu của bài tiểu luận này lại quan trọng đến vậy. Và đó là lý do tại sao chúng ta đang sống trong thời kỳ nguy hiểm như vậy.
https://www.realcleardefense.com/articles/2024/04/13/joe_bidens_dangerous_world_1024882.html
(Francis P. Sempa, RealClear Politics, 13/4/2024)
Trong ba năm qua, Taliban quay trở lại nắm quyền ở Afghanistan, Nga xâm lược Ukraine, Hamas xâm lược Israel, Trung Quốc gia tăng áp lực lên Đài Loan, quan hệ đối tác Trung-Nga được củng cố, những kẻ khủng bố Houthi tàn phá hoạt động vận chuyển hàng hải trên Biển Đỏ, Iran tiến gần hơn đến việc giành được quyền kiểm soát vũ khí hạt nhân, Triều Tiên tăng cường năng lực tên lửa liên lục địa, Trung Quốc và Nga hiện đại hóa lực lượng hạt nhân của họ, và những người nhập cư bất hợp pháp tràn ngập biên giới phía nam Hoa Kỳ.
Chính quyền Biden đã tiến hành một cuộc rút quân không chuyên nghiệp khỏi Afghanistan, khiến một số người Mỹ và nhiều đồng minh Afghanistan của chúng ta phải trả giá bằng mạng sống. Biden đã cung cấp viện trợ cho Ukraine và sử dụng những lời lẽ có nguy cơ leo thang chiến tranh Ukraine thành một cuộc chiến tranh rộng lớn hơn trên thế giới hoặc ở châu Âu. Ông đã thực hiện một chính sách đối với Trung Quốc, kết hợp “sự can thiệp” với việc tiếp tục một số chính sách mang tính đối đầu hơn là Donald Trump. Chính sách tổng thể về Nga của Biden đã củng cố quan hệ đối tác chiến lược Trung-Nga. Trước các cuộc tấn công của Houthi vào các tàu chở hàng, những phản ứng riêng rẽ của ông không ngăn chặn được những cuộc tấn công đó. Việc chính quyền thúc đẩy lệnh ngừng bắn ở Gaza đã cản trở nỗ lực của Israel nhằm đánh bại Hamas. Phản ứng của họ đối với việc Iran tìm kiếm vũ khí hạt nhân là cố gắng khôi phục thỏa thuận hạt nhân còn thiếu sót. Nó đã thúc đẩy việc “kiểm soát vũ khí” nhiều hơn đối với Nga ngay cả khi việc Trung Quốc vẫn gia tăng sản xuất hạt nhân. Và chính quyền đã tạo điều kiện thuận lợi (cho những việc đó) hơn là ngăn chặn sự nhập cảnh bất hợp pháp của hàng triệu người vào đất nước chúng ta.
Không có tổng thống và không có chính quyền nào có thể kiểm soát các sự kiện trên khắp thế giới. Theo lời của Otto von Bismarck, điều tốt nhất mà bất kỳ chính khách nào cũng có thể làm là “đi theo” dòng sự kiện và “lèo lái chúng” theo hướng có lợi cho đất nước của mình. Chính quyền Biden dường như bất lực trong việc lèo lái các sự kiện theo hướng có lợi cho đất nước và bảo vệ lợi ích quốc gia của chúng ta. Họ theo đuổi các mục tiêu chung và các giải pháp đa phương để khắc phục “biến đổi khí hậu”, bao gồm giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch và thúc đẩy xe điện. Họ đã thể chế hóa “Đa dạng, Công bằng và Hòa nhập” (DEI) trong các dịch vụ vũ trang của chúng ta, điều này đã làm giảm việc tuyển dụng và thúc đẩy “sự tỉnh táo” gây phương hại đến sứ mệnh của các lực lượng vũ trang của chúng ta. Họ đã đề xuất một ngân sách quốc phòng nhằm cắt giảm chi tiêu theo giá trị thực tế bất chấp sự tham gia của chúng ta vào hai cuộc chiến tranh và một cơn bão đang tập trung ở Tây Thái Bình Dương. Họ đã thu hẹp lực lượng hải quân của chúng ta vào thời điểm Trung Quốc tiếp tục chế tạo tàu chiến, bao gồm cả mẫu hạm.
Những người ủng hộ Biden sẽ phản bác rằng tổng thống đã củng cố NATO trước sự xâm lược của Nga bằng cách mời Phần Lan và Thụy Điển tham gia liên minh. Nhưng việc tăng quy mô của một liên minh không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với việc làm cho liên minh trở nên mạnh mẽ hơn. Sự mở rộng NATO - và đây không chỉ là lỗi của Biden - chỉ đơn thuần là tăng diện tích địa lý mà Mỹ cam kết bảo vệ với ít quân hơn, đồng thời bổ sung thêm các đồng minh liên tục không đáp ứng được nhu cầu phòng thủ của chính họ, chứ chưa nói đến nhu cầu của liên minh.
Về cơ bản hơn, có rất ít ý nghĩa rằng trong đội ngũ an ninh quốc gia của Biden có những nhà tư tưởng chiến lược nhìn thế giới bằng những phân tích địa chính trị lạnh lùng, cứng rắn và đánh giá cao tầm quan trọng sống còn của nước Mỹ chứ không phải các lợi ích ngoại vi. Antony Blinken, Jake Sullivan và Lloyd Austin thiếu sức hấp dẫn của các nhà hoạch định chính sách an ninh quốc gia gần đây và xa hơn một chủt. Không có những George Kennan, Dean Acheson, John Foster Dulles, Henry Kissinger, Jim Schlesinger, Jean Kirkpatrick, George Shultz, Caspar Weinberger, Richard Pipes, Zbigniew Brzezinski, Mike Pompeo hay Elbridge Colby trong chính quyền Biden. Và sự hiểu biết của Biden về chính trị quốc tế vẫn mờ nhạt so với Eisenhower, Nixon và George H.W. Bush. Hãy nhớ rằng chính Robert Gates, cựu Giám đốc CIA và Bộ trưởng Quốc phòng trong cả chính quyền Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ, đã nhận xét nhiều năm trước khi Biden còn là phó tổng thống rằng Biden “đã sai lầm trong hầu hết mọi vấn đề chính sách đối ngoại và an ninh quốc gia lớn trong 4 thập kỷ vừa qua.” Ba năm qua đã xác nhận tính chính xác trong đánh giá của Gates.
Một số đoạn đầu tiên trong Chiến lược An ninh Quốc gia năm 2022 của chính quyền nêu bật những thách thức về “biến đổi khí hậu, mất an ninh lương thực, bệnh truyền nhiễm, khủng bố, thiếu năng lượng, [và] lạm phát”. Chiến lược khẳng định: “Những thách thức chung này không phải là những vấn đề thứ yếu so với địa chính trị. Chúng là cốt lõi của an ninh quốc gia và quốc tế và phải được đối xử như vậy.” Nếu những vấn đề này là “cốt lõi” của lợi ích an ninh quốc gia của chúng ta, thì cạnh tranh giữa các cường quốc chỉ là để có lợi ích ngang bằng hoặc kém hơn. Vấn đề nằm ở đó. Chính sách đối ngoại là ưu tiên cho lợi ích quốc gia một cách cụ thể. Chính quyền Biden ưu tiên hệ tư tưởng hơn địa chính trị.
Nếu có một thứ gọi là Học thuyết Biden thì đó là việc chính quyền định hình chính sách dựa trên những gì họ coi là cuộc đấu tranh sinh tồn giữa “dân chủ” và “độc tài”. Đây là thành phần tư tưởng trong chính sách an ninh quốc gia của nước này, kết hợp chủ nghĩa Wilsonianism (dân tộc tự quyết) với chủ nghĩa thức tỉnh (wokeism). Chiến lược an ninh quốc gia của Biden đặt Mỹ vào thế đối đầu với cả Nga và Trung Quốc. Nó tránh tiến hành kiểu ngoại giao tam giác của thời kỳ Nixon-Reagan đã giúp chúng ta giành chiến thắng trong Chiến tranh Lạnh. Các nhà hoạch định chính sách an ninh quốc gia của Biden không có ý nghĩa gì khi họ đánh giá cao sự khôn ngoan lâu dài của địa chính trị cổ điển, tầm quan trọng trong chính trị toàn cầu của lục địa Á-Âu và sự cần thiết của Hoa Kỳ để duy trì quyền lực tối cao trên biển. Ngân sách quốc phòng được đề xuất vào năm 2024 sẽ thực sự thu hẹp hải quân Mỹ xuống còn 13 tàu chiến. Alfred Thayer Mahan và Theodore Roosevelt chắc hẳn đang trở mình dưới nấm mồ của mình.
Nhìn thế giới qua lăng kính tư tưởng “dân chủ” và “độc tài” sẽ hạn chế sự linh hoạt của Mỹ và làm mất đi sự kiềm chế về địa chính trị. Nó lôi kéo Hoa Kỳ vào các cuộc xung đột ngoại vi phù hợp với thế giới quan hệ tư tưởng của chính quyền. Nó phớt lờ lời khuyên khôn ngoan của John Quincy Adams là đừng đi ra nước ngoài tìm kiếm quái vật để tiêu diệt. Nó có thể làm cạn kiệt nguồn lực của Mỹ và làm chúng ta mất tập trung vào những thách thức và mối đe dọa quan trọng hơn đối với lợi ích của chúng ta.
Sau đó là những yếu tố không thể định lượng được về độ tin cậy và sự tôn trọng của người Mỹ. Đó là nơi lực hấp dẫn xuất hiện. Các nhà lãnh đạo nước ngoài - cả đồng minh và đối thủ - phải sợ sức mạnh của Mỹ, tin vào lời nói của Mỹ và thấy rằng các nhà lãnh đạo Mỹ sẽ làm bất cứ điều gì cần thiết để bảo vệ đất nước này và thúc đẩy lợi ích của nước này. Những người theo chủ nghĩa toàn cầu hóa chế giễu khái niệm “Nước Mỹ trên hết” nhưng lại không thấy rằng các nhà lãnh đạo nước ngoài là người Nga trên hết, người Trung Quốc trên hết, người Đức trên hết, người Pháp trên hết, v.v. Đó là cách thế giới vận hành. Đó là lý do tại sao những thất bại được kể lại trong đoạn mở đầu của bài tiểu luận này lại quan trọng đến vậy. Và đó là lý do tại sao chúng ta đang sống trong thời kỳ nguy hiểm như vậy.
https://www.realcleardefense.com/articles/2024/04/13/joe_bidens_dangerous_world_1024882.html
NVV dịch