2025-09-15
Di cư hàng loạt đang tạo ra một tầng lớp thấp kém mới chống phương Tây
(Joel Kotkin, The Telegraph, 15/9/2025)
Phe cánh tả “chống thực dân” muốn các xã hội phương Tây chuộc lại “tội lỗi nguyên thủy” của họ. Từ vai trò lịch sử của họ trong chế độ nô lệ, chủ nghĩa đế quốc và sự tuyệt chủng của người bản địa cho đến sự áp bức giai cấp, những người theo chủ nghĩa tiến bộ lập luận rằng phương Tây nên đền tội ngay hôm nay bằng cách cho phép nhập cư hàng loạt không hạn chế từ những vùng đất khốn khổ nhất trên trái đất.
Tuy nhiên, di cư hàng loạt đã gây ra sự phản đối ngày càng dữ dội trên khắp phương Tây. Điều này không chỉ đúng ở Hoa Kỳ mà còn ở các quốc gia khác có lịch sử di cư thành công lâu dài, bao gồm Vương quốc Anh, Hà Lan và Pháp. Các hành động nhằm giảm thiểu di cư đã được áp dụng ở Ý, và dường như sẽ sớm được áp dụng ở Đức, nơi hệ thống phúc lợi xã hội đang ngày càng yếu kém. Canada, từng được coi là một trong những quốc gia tích cực nhất cho di cư hàng loạt, cũng đã công bố kế hoạch cắt giảm đáng kể.
Có những lý do chính đáng và hợp lý cho điều này. Những cử tri phản đối di cư hàng loạt, bao gồm cả di cư bất hợp pháp, thường bị cáo buộc là phân biệt chủng tộc và bài ngoại, hoặc ưu tiên những nhu cầu ích kỷ của bản thân mà bỏ qua tiến bộ kinh tế. Tuy nhiên, nếu nhìn vào những gì đang diễn ra trên thực tế, vẫn chưa rõ làn sóng di cư ồ ạt hiện nay có tác động tích cực đến kinh tế như thế nào.
Chắc chắn, những người nhập cư hợp pháp từ châu Âu và châu Á đã làm giàu cho xã hội phương Tây trong quá khứ. Ví dụ, lao động nhập cư từ Nam Âu và Thổ Nhĩ Kỳ đã đóng một vai trò quan trọng trong việc giải quyết tình trạng thiếu lao động, vốn đe dọa sự hồi sinh kinh tế của châu Âu trong thời kỳ phục hồi sau chiến tranh. Và ngày nay, cả những người bảo thủ tự do lẫn những người cấp tiến vẫn coi di cư về cơ bản là không được kiểm soát - hơn 10 triệu người kể từ năm 2021, dưới thời Joe Biden cầm quyền kém cỏi - là phương tiện duy nhất để giải quyết sự bùng nổ dân số của phương Tây và phục hồi nền kinh tế trì trệ của họ.
Nhưng những quan điểm này ngày càng phản ánh sự hoài niệm hơn là thực tế. Các quốc gia đã chứng kiến làn sóng di cư lớn nhất - đặc biệt là những người xin tị nạn hoặc đơn giản là trốn tránh pháp luật - thường không được hưởng lợi về mặt kinh tế.
Vương quốc Anh và Canada là một ví dụ. Tỷ lệ nhập cư của Canada nằm trong số những nước cao nhất thế giới. Trong năm tính đến tháng 6 năm 2023, đất nước 40 triệu dân này đã tiếp nhận hơn một triệu người nhập cư, chiếm gần như toàn bộ mức tăng trưởng dân số của cả nước. Tuy nhiên, bất chấp làn sóng nhập cư này, trong thập kỷ qua, Canada đã phải chịu một trong những mức tăng trưởng kinh tế chậm nhất trong số các nước phát triển, đặc biệt là xét về GDP bình quân đầu người. Vương quốc Anh, quốc gia gần đây đã tiếp nhận nhiều người nhập cư bình quân đầu người hơn Hoa Kỳ, cũng đang phần lớn trì trệ về kinh tế.
Thay vì một tầng lớp trung lưu mới nổi lên, nhiều người nhập cư, ngay cả ở Hoa Kỳ, đang ngày càng chật vật. Chỉ tính riêng năm 1993, người nhập cư chiếm 14% dân số Hoa Kỳ sống trong cảnh nghèo đói, và đến năm 1994, chỉ có 11% người nghèo là người nhập cư không phải công dân; ba thập kỷ sau, người nhập cư chiếm gần một phần tư tổng số người nghèo, và 13,2% số người nghèo là người nhập cư không phải công dân.
Sự kết hợp của một nền kinh tế đang thay đổi – ví dụ, lao động chân tay đã giảm xuống còn 22% tổng số việc làm tại Hoa Kỳ vào năm 2025 từ mức 35% của 50 năm trước – và việc mở rộng nhà nước phúc lợi dường như đang tạo ra một tầng lớp dưới ngày càng gia tăng ở những quốc gia vốn đã chìm sâu trong nợ nần và đang gặp khó khăn về kinh tế.
Ngày nay, ở nhiều nơi tại châu Âu, người ta thấy rằng những người mới đến phụ thuộc nhiều hơn vào phúc lợi, không đóng góp so với người bản xứ. Tại Tây Ban Nha, tỷ lệ người nhập cư từ bên ngoài lục địa, chủ yếu là Mỹ Latinh và châu Phi, được coi là có nguy cơ nghèo đói cao gấp khoảng ba lần so với người bản xứ. Tại Canada, một nghiên cứu cho thấy cứ năm người nhập cư gần đây thì có một người phải chịu cảnh nghèo đói – được định nghĩa là không có khả năng chi trả cho hàng hóa và dịch vụ phù hợp với mức sống khiêm tốn – so với chỉ 10% dân số.
Sự gia tăng ồ ạt của người di cư không có giấy tờ, đặc biệt là đến các quốc gia như Hoa Kỳ, cũng được coi là một cuộc tấn công vào tầng lớp lao động, bất kể sắc tộc của họ, do sự cạnh tranh về nhà ở và việc làm.
Triển vọng thăng tiến – đặc biệt là đối với các nhóm người nhập cư từ các nước nghèo – càng bị cản trở bởi các yếu tố như trường học kém hiệu quả. Hầu hết các hệ thống giáo dục phương Tây dường như đã chuyển hướng từ việc thúc đẩy lòng trung thành với đất nước sang tập trung vào việc nhồi sọ học sinh thông qua chương trình giảng dạy “phi thực dân hóa”. Thay vì khuyến khích người mới đến hòa nhập, điều này có thể khiến họ coi thường di sản của quốc gia sở tại.
Chẳng có gì trong số này làm phiền giới tư sản ở Brooklyn, Georgetown và Thung lũng Silicon, những nơi mà người ta dễ dàng nhìn thấy biển báo "không ai là bất hợp pháp". Suy cho cùng, nhập cư không kiểm soát cung cấp bảo mẫu giá rẻ cho giới nhà giàu, những người giờ đây thường có nhiều con hơn người Mỹ trung bình. Nó cũng trở thành mục tiêu mới nhất cho những người nổi tiếng và những người có sức ảnh hưởng tự quảng bá, những người bảo vệ người nhập cư không có giấy tờ để thực hiện lời tuyên bố đạo đức không ngừng nghỉ của họ. Nhiều doanh nghiệp vẫn chấp nhận nhập cư hàng loạt không qua kiểm tra – phần lớn là bất hợp pháp – như một nguồn lao động giá rẻ.
Nhưng họ đang ngày càng thua cuộc. Phản ứng dữ dội của tầng lớp lao động và trung lưu chống lại làn sóng di cư ồ ạt đã châm ngòi cho sự phát triển của các đảng phái chính trị cánh hữu ở Anh, Hà Lan và Pháp, cũng như củng cố sự ủng hộ dành cho Donald Trump. Xu hướng này càng trở nên trầm trọng hơn bởi những lo ngại rằng những người di cư gần đây không có ý định chấp nhận các giá trị phương Tây. Những người có nguồn gốc di cư đã được đại diện tốt tại các cuộc biểu tình chống Israel, và những người ủng hộ khủng bố hiện đang quấy rối và đe dọa người Do Thái và các công dân khác trên đường phố tại các thành phố như Amsterdam, Toronto, Los Angeles, London và Paris, tất cả đều từng được coi là biểu tượng của sự khoan dung.
Ngoài ra, nhiều người nhập cư gần đây đến phương Tây đến từ các quốc gia ở Châu Á và Nam Mỹ, nơi thường có tỷ lệ tội phạm bạo lực cao. Ví dụ, theo StatsCan, tỷ lệ tội phạm bạo lực ở Canada, vốn yên bình, đã tăng gần 40% từ năm 2014 đến năm 2023, một giai đoạn di cư cao. Các băng đảng đã biến Canada thành thiên đường cho trộm cắp xe hơi, vận chuyển cả xe và phụ tùng đến các nước đang phát triển.
Chắc chắn, các xã hội phương Tây vẫn cần người nhập cư – từ công nhân sản xuất lành nghề, bác sĩ đến các nhà khoa học tên lửa. Nhưng câu hỏi then chốt là những người nhập cư nào, bao nhiêu người, và liệu chúng ta có nên xem xét trước tiên cách tái thu hút một bộ phận lực lượng lao động hiện tại hay không.
Điều chúng ta không cần là thêm nhiều lao động thời vụ và những thanh niên trẻ chưa qua kiểm tra, đôi khi là tội phạm, lang thang khắp các thành phố. Nhập cư hoàn toàn có thể là một yếu tố quan trọng trong việc tái tạo năng lượng cho các nền kinh tế phương Tây, nhưng chỉ khi các chính sách được xây dựng không phải như một bài tập sám hối toàn cầu mà là một điều gì đó khẳng định và nâng cao sức hấp dẫn của các quốc gia chúng ta.
https://www.telegraph.co.uk/us/comment/2025/09/15/mass-migration-is-creating-a-new-anti-western-underclass/
https://www.yahoo.com/news/articles/mass-migration-creating-anti-western-200803964.html
NVV