2025-06-03  

Tại sao chiến tranh pháp lý "ăn miếng trả miếng" là cần thiết
Phe bảo thủ cần phải dùng chiến tranh pháp lý chống lại chiến tranh pháp lý của phe cấp tiến cho đến khi có được một nền tư pháp vô tư


(Clifford Angell Bates, Chronicle Magazine, 3/6/2025)

Nguyên tắc pháp quyền từ lâu đã là trụ cột của nền dân chủ hiến pháp tự do—cam kết xét xử trung lập, công lý vô tư và công bằng chính trị. Sự trung lập này mang lại tính hợp pháp cho chế độ pháp trị trái ngược với chế độ của những con người tầm thường. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, đặc biệt là dưới các chiến lược hung hăng của phe cánh tả cấp tiến, một sự chuyển đổi nguy hiểm đã xảy ra. Luật pháp không còn là vấn đề duy trì trật tự hay giải quyết tranh chấp. Nó đã trở thành vũ khí—“chiến tranh pháp lý”—được sử dụng không phải để giành công lý mà để giành chiến thắng. Dưới chiêu bài hợp pháp, phe cánh tả đã khai thác các thể chế công lý để truy đuổi kẻ thù chính trị của họ, vô hiệu hóa những tiếng nói bất đồng chính kiến ​​và củng cố sự thống trị về mặt ý thức hệ. Sự phát triển này về cơ bản đã làm suy yếu uy tín của các thể chế tư pháp và đầu độc nguồn hợp tác chính trị.

Câu hỏi mà những người bảo thủ, dân túy và những người bảo vệ trật tự hiến pháp của chúng ta đang phải đối mặt hiện nay là liệu có thể khôi phục tính trung lập cho luật pháp mà không cần phải chứng minh trước rằng việc sử dụng sai luật pháp phải mang lại hậu quả thực sự và cân xứng hay không. Một sự khôi phục như vậy khó có thể xảy ra cho đến khi phe cánh hữu học được cách tham gia vào loại chiến lược ăn miếng trả miếng mà Robert Axelrod đã từng mô tả trong tác phẩm có ảnh hưởng sâu sắc của ông, The Evolution of Cooperation .

Chỉ khi nào chi phí vũ khí hóa luật pháp được làm rõ với tất cả các bên thì động lực hợp tác mới có thể xuất hiện trở lại. Nếu không được đáp lại, tiến trình hiện tại chỉ đảm bảo sự xói mòn hơn nữa các chuẩn mực pháp lý và chính trị của nước cộng hòa.

Hãy xem xét vụ truy tố cựu Tổng thống Donald Trump—các cáo buộc hình sự do các công tố viên Dân chủ khởi xướng tại các khu vực tài phán có khuynh hướng đảng phái áp đảo, thường dựa trên các căn cứ pháp lý đáng ngờ hoặc chưa từng có. Tương tự như vậy, những người được đề cử vào Tòa án Tối cao bảo thủ đã phải đối mặt với những thử thách chuẩn thuận khác thường, với các chiến thuật theo kiểu chiến tranh pháp lý được triển khai để hủy hoại danh tiếng họ thông qua các cáo buộc bịa đặt hoặc phóng đại. Các tổng chưởng lý tiểu bang và các cơ quan hành chính đã phối hợp các vụ kiện và chiến dịch quản lý để phá sản các tổ chức phi lợi nhuận bảo thủ, đàn áp những người ủng hộ quyền được sống hoặc bịt miệng những quan điểm bất đồng về các vấn đề tình dục, tôn giáo và ngôn luận.

Những hành động này hiếm khi được biện minh trên cơ sở các nguyên tắc pháp lý trung lập. Thay vào đó, chúng nhằm mục đích làm suy yếu tinh thần của phe đối lập, áp đặt chi phí pháp lý, tạo ra các trò hề trên truyền thông và làm nguội lạnh mọi sự phản kháng. Luật pháp không còn là lá chắn nữa; nó là thanh kiếm.

Điều đáng lo ngại hơn nữa là sự chuyển đổi này diễn ra chủ yếu với sự chấp thuận - hoặc ít nhất là sự im lặng - của nhiều học giả pháp lý, giới tinh hoa truyền thông và đảng viên Dân chủ.

Việc triển khai chiến tranh pháp lý mang lại lợi ích chiến thuật tức thời cho những người theo chủ nghĩa cấp tiến. Nhưng nó phải trả giá đắt: mất đi tính chính danh và lòng tin vào chính những thể chế mà họ tuyên bố bảo vệ. Bởi vì một khi luật pháp được một bên sử dụng làm vũ khí, bên kia chỉ còn lại hai lựa chọn: đầu hàng hoặc trả đũa. Ảo tưởng về việc quay trở lại thời kỳ tiền sa ngã [prelapsarian era - là thời kỳ trươc khi Eva ăn trái cấm] của sự văn minh [hay lịch sự] lưỡng đảng chỉ là ảo tưởng. Những động cơ do chiến tranh pháp lý tạo ra về bản chất là leo thang, vì một bên định nghĩa lại các chuẩn mực giao tranh, buộc bên kia phải thích nghi hoặc diệt vong.

Trong bối cảnh này, khái niệm tiền lệ [hay án lệ] phải được hiểu theo toàn bộ ý nghĩa chính trị của nó. Tiền lệ không chỉ là những phán quyết hạn hẹp (arcane) được chôn vùi trong sách giáo khoa luật; chúng là những tín hiệu xã hội năng động — những phán đoán thực tế về những gì được chấp nhận, mong đợi và cuối cùng là có thể sao chép trong một cộng đồng chính trị. Trong truyền thống luật chung, tiền lệ (hay stare decisis) đóng vai trò ổn định: ràng buộc các quyết định tư pháp trong tương lai với các phán quyết trong quá khứ để đảm bảo khả năng dự đoán, tính liên tục và công bằng trong việc giải thích pháp luật. Nhưng hơn thế nữa, nó bao gồm một chuẩn mực cơ bản về sự kiềm chế qua lại. Các thẩm phán được mong đợi không hành động tùy tiện và các tác nhân chính trị được mong đợi không viết lại các quy tắc mỗi khi quyền lực thay đổi.

Tuy nhiên, tiền lệ hoạt động vượt ra ngoài phòng xử án—nó là một yếu tố nền tảng của văn hóa chính trị trong các hệ thống được định hình bởi truyền thống Anh-Mỹ. Phong tục và thông lệ trước đây thường mang cùng sức mạnh về mặt đạo đức và thể chế như luật pháp được mã hóa trong các hệ thống như vậy. Một sự hiểu biết chung về những gì "đã được thực hiện" xác định những gì có thể được thực hiện và những gì nên tránh. Các tác nhân chính trị có xu hướng tránh những gì có thể phá hủy tính hợp pháp của thể chế nếu đối thủ của họ có thể làm điều tương tự với họ. Theo nghĩa này, tiền lệ hoạt động như một loại nguyên tắc siêu hiến pháp, định hình hành vi của đời sống chính trị ngay cả khi không có lệnh cấm rõ ràng.

Khi những người theo chủ nghĩa cấp tiến bình thường hóa việc truy tố các cựu tổng thống, loại trừ tiếng nói dân túy khỏi quảng trường công cộng, hoặc sử dụng các cơ quan như Bộ Tư pháp và FBI để theo dõi và đàn áp những người đối lập về mặt ý thức hệ, họ không chỉ đạt được chính sách ngắn hạn hoặc các mục tiêu bầu cử. Họ đang thiết lập các tiền lệ làm thay đổi ranh giới của hành động chính trị có thể chấp nhận được. Những hành động này thực sự viết lại các quy tắc bất thành văn của trò chơi chính trị. Họ báo hiệu cho các diễn viên chính trị tương lai, đặc biệt là đối thủ của họ, rằng những hạn chế từng được tôn trọng không còn hiệu lực nữa.

Những tiền lệ như vậy đặc biệt có hiệu lực vì chúng là đơn phương: chúng không đòi hỏi cải cách lập pháp hoặc tranh luận công khai. Chúng được thiết lập thông qua việc làm, thông qua hành động, và một khi đã làm, chúng trở thành trò chơi công bằng. Chúng tạo ra một trạng thái cân bằng mới về hành vi—một trạng thái mà việc hạ nhiệt qua lại trở nên khó khăn hơn và khả năng trả đũa cao hơn. Do đó, phe bảo thủ càng tuân thủ các chuẩn mực lỗi thời về sự kiềm chế và chủ nghĩa thủ tục, thì họ càng truyền đạt sự yếu kém hơn là đức tính.

Theo cách này, bài học được dạy là đơn giản một cách tàn bạo: sự kiềm chế bị trừng phạt, không phải được khen thưởng; lời kêu gọi công bằng bị coi là ngây thơ; và những người không thích nghi với các quy tắc mới sẽ bị nghiền nát. Cấu trúc của các động cơ đã thay đổi, và cùng với nó, bản chất của sự tham gia chính trị. Logic của tiền lệ đảm bảo rằng những gì từng có vẻ không thể nghĩ tới sẽ trở nên có thể chấp nhận được, và những gì có thể chấp nhận được sẽ sớm trở thành thói quen.

Như vậy, chúng ta thấy rằng tính trung lập mà chúng ta từng trân trọng trong luật pháp không chỉ là một sự tinh tế về thủ tục; nó là nền tảng cho trật tự hiến pháp. Ý tưởng rằng một người có thể đưa khiếu nại ra trước một thẩm phán công bằng, hoặc rằng một công dân có thể chống lại sự cưỡng ép của nhà nước trên các điều khoản bình đẳng với bất kỳ người nào khác, là cốt lõi của tính hợp pháp dân chủ. Nếu quyền lực tư pháp chỉ đơn thuần trở thành sự mở rộng của ý chí đảng phái, thì bản thân chính trị sẽ không bị giới hạn bởi các chuẩn mực. Nhà nước trở nên không thể phân biệt được với một phe phái, và luật pháp trở nên không thể phân biệt được với sự trả thù.

Niềm tin của công chúng vào ngành tư pháp đang sụp đổ. Các cuộc thăm dò liên tục cho thấy sự chia rẽ sâu sắc giữa các đảng phái trong nhận thức về sự công bằng, và có lý do chính đáng. Công lý hiện nay dường như phụ thuộc vào khuynh hướng chính trị. Một người bảo thủ bị buộc tội làm sai phải đối mặt với viễn cảnh thực sự không chỉ là bị truy tố, mà còn là một hệ thống tư pháp chứa đầy các công tố viên, thẩm phán và bồi thẩm đoàn thù địch về mặt ý thức hệ. Trong khi đó, các nhà hoạt động cấp tiến có thể tham gia vào các hành vi bạo lực, bất tuân dân sự hoặc quấy rối mà không bị trừng phạt tương đối—miễn là chính trị của họ là đúng đắn.

Một khi nhận thức về sự công bằng bị mất đi, người dân không còn coi tòa án là trọng tài nữa. Họ coi tòa án là vũ khí. Và một khi nhận thức đó lan rộng, chất keo gắn kết xã hội đa nguyên lại với nhau—sự khoan dung lẫn nhau—sẽ tan rã.

Nếu chúng ta hy vọng thoát khỏi vòng xoáy suy thoái pháp lý và chính trị này, chúng ta phải chuyển sang tác phẩm có ảnh hưởng của Robert Axelrod, The Evolution of Cooperation. Trong đó, Axelrod khám phá cách thức hợp tác có thể xuất hiện ngay cả giữa những tác nhân cạnh tranh, ích kỷ. Dựa trên thế tiến thoái lưỡng nan của tù nhân, ông điều hành một loạt các giải đấu máy tính để mô phỏng các chiến lược khác nhau trong các trò chơi lặp lại. Điều ông phát hiện ra thật đáng kinh ngạc: chiến lược dài hạn hiệu quả nhất là "ăn miếng trả miếng". Người ta phải bắt đầu bằng sự hợp tác nhưng ngay lập tức trả đũa khi bị phản bội—và sau đó tha thứ nếu sự hợp tác được nối lại.

Điều khiến cho việc ăn miếng trả miếng trở nên mạnh mẽ là sự rõ ràng và công bằng của nó. Với chiến lược này, người ta không khởi xướng sự thù địch, nhưng cũng không dung túng cho sự bóc lột. Thay vào đó, người ta trừng phạt kẻ bỏ chạy nhưng luôn sẵn sàng quay lại hợp tác nếu người chơi kia sẵn sàng chơi công bằng. Theo thời gian, điều này dạy cho những người chơi khác rằng chi phí của sự phản bội lớn hơn lợi ích. Ngay cả trong một hệ thống các tác nhân ích kỷ, một sự cân bằng ổn định của sự hợp tác có thể xuất hiện—miễn là hành vi xấu bị trừng phạt nhanh chóng và tương xứng.

Áp dụng vào chính trị, quan điểm của Axelrod là sự kiềm chế chỉ bền vững khi nó được đáp lại. Nếu một bên từ chối trả đũa sự phản bội—tự cho rằng mình quá nguyên tắc hoặc cao thượng—thì bên đó sẽ bị lợi dụng. Và khi không có sự trừng phạt đáp trả, động cơ sẽ ủng hộ sự xâm lược liên tục.

Nhận thức này dẫn đến một kết luận đáng suy ngẫm: những người bảo thủ phải chấm dứt sự kiềm chế đơn phương. Họ phải tham gia vào việc ăn miếng trả miếng. Điều này không có nghĩa là khởi xướng hành vi xâm lược pháp lý hoặc phá hoại các thể chế vì mục đích tàn bạo hoặc vô ích. Điều này có nghĩa là làm rõ rằng chiến tranh pháp lý sẽ được đáp trả bằng chiến tranh pháp lý—rằng có những chi phí thực sự cho sự tham nhũng mang tính chiến lược của các thể chế tư pháp.

Điều này có thể có nghĩa là các tổng chưởng lý Cộng hòa điều tra và truy tố những nhân vật Dân chủ nổi tiếng trong các khu vực tài phán thiên về Cộng hòa bằng cách sử dụng các lý thuyết mở rộng giống như vậy về trách nhiệm hình sự. Nó có thể có nghĩa là luận tội các thẩm phán cấp tiến lạm dụng tiền lệ một cách trắng trợn hoặc áp dụng sai luật vì mục đích ý thức hệ. Nó có thể liên quan đến các phiên điều trần của quốc hội về các vụ truy tố có động cơ chính trị hoặc luật pháp để cắt ngân quỹ cho các tác nhân đảng phái trong Bộ Tư pháp hoặc các hiệp hội luật sư tiểu bang.

Vấn đề không phải là tôn vinh sự trả thù hay từ bỏ lý tưởng về công lý vô tư. Vấn đề là công lý không thể tồn tại trong một hệ thống bất đối xứng. Chỉ khi những người cấp tiến cảm thấy sự đau đớn từ chiến thuật của chính họ, họ mới có động lực quay trở lại với sự quản lý dựa trên luật lệ. Chỉ khi chi phí của sự phản bội vượt quá lợi ích thì hợp tác mới tái xuất hiện như một chiến lược hợp lý.

Axelrod cho thấy hệ thống ổn định không phải thông qua lời khuyên răn về mặt đạo đức, mà thông qua sự có đi có lại có thể dự đoán được. Những người bảo thủ tự kiềm chế mình trong khi bị chiến tranh pháp lý tấn công dữ dội không phải là đang duy trì các chuẩn mực—mà là họ đang tạo điều kiện cho sự phá hủy chúng. Một án lệnh tư pháp trung lập sẽ không tồn tại trở lại cho đến khi vi phạm của nó trở nên vô ích.

Điều quan trọng là phải hiểu rằng ăn miếng trả miếng không phải là hư vô. Nó không phải là xung đột vĩnh viễn. Mục đích của nó là tái lập các điều kiện mà theo đó hợp tác lẫn nhau một lần nữa là lựa chọn hợp lý nhất. Để làm được điều này, trước tiên nó phải chứng minh rằng sự tấn công đơn phương sẽ được đáp trả bằng sự phản kháng ngang bằng và ngược lại.

Đây là nơi mà nhiều người bảo thủ có thiện chí mắc sai lầm. Họ tin rằng bằng cách từ chối trả đũa, họ đang "đi theo con đường cao cả". Họ nghĩ rằng hành động của họ sẽ bảo vệ được phẩm giá của các tổ chức mà họ tôn trọng. Nhưng trong mô hình của Axelrod, đây là một chiến lược thua cuộc. Nó tưởng thưởng cho sự phản bội. Và nó mời gọi thêm các vòng leo thang.

Nếu phe cánh tả cấp tiến muốn biến luật thành vũ khí, thì những người hành pháp bảo thủ phải chuẩn bị và sẵn sàng nhắm vào phe cánh tả bằng những chiến thuật mà họ đã đưa ra. Hãy để các công tố viên cấp tiến bị lôi vào phòng xử án. Hãy để nhà nước hành chính biến thành vũ khí theo chiều ngược lại. Hãy để mọi tiền lệ mà họ thiết lập trở thành cái bẫy mà họ rơi vào. Không phải vì tức giận—mà là vì cần thiết.

Chỉ khi đó, có lẽ, các nhà chiến lược cấp tiến mới nhận ra rằng chi phí sử dụng luật pháp như một vũ khí đảng phái là quá cao. Chỉ khi đó, họ mới bắt đầu thấy được giá trị của việc quay trở lại chính trị dựa trên luật lệ, khoan dung lẫn nhau và kiềm chế thể chế.

Đây là nghịch lý của sự hợp tác: nó không thể sinh ra từ sự yếu đuối. Nó phải được dạy thông qua sức mạnh.

Một số người sẽ phản đối rằng việc chữa cháy bằng lửa chỉ dẫn đến tro tàn. Họ sẽ cảnh báo rằng việc tham gia vào cuộc chiến pháp lý sẽ phá hủy chính những nguyên tắc mà chúng ta muốn bảo vệ. Nhưng lời chỉ trích này không tính đến động lực chiến lược của quyền lực thể chế.

Sự kiềm chế đơn phương không phải là cao quý nếu nó cho phép phá hủy công lý. Một hệ thống tư pháp được sử dụng như một công cụ chính trị không phải là trung lập; nó là chế độ toàn trị trá hình. Việc dung túng cho sự lạm dụng như vậy là phản bội chính lý tưởng của Hiến pháp.

Mối đe dọa thực sự đối với pháp quyền không phải là sự trả đũa qua lại. Đó là sự bóp méo luật pháp một chiều vì mục đích chính trị. Đó là sự lạm dụng các thể chế không bị trừng phạt dạy cho một bên rằng họ có thể hành động mà không bị trừng phạt. Tác phẩm của Axelrod là lời nhắc nhở nghiêm túc rằng hợp tác, hòa bình và trật tự không bao giờ là quà tặng; chúng là kết quả của kỷ luật có đi có lại và thận trọng.

https://chroniclesmagazine.org/web/why-tit-for-tat-lawfare-is-necessary/

Clifford Angell Bates, Jr. từ năm 2002 đã là Giáo sư Đại học tại Trung tâm Nghiên cứu Hoa Kỳ tại Đại học Warsaw ở Warsaw Ba Lan. Từ năm 2004, ông là Giảng viên trong chương trình Thạc sĩ Ngoại giao và Quan hệ Quốc tế tại Đại học Norwich, Northfield Vermont. Bates có bằng Tiến sĩ Khoa học Chính trị từ Đại học Northern Illinois. Ông là tác giả của Aristotle's Best Regime (LSU 2003) và The Centrality of the Regime for Political Science (WUW 2016).


NVV dịch