2025-08-09  

Cảm ơn, Obama  
Nhiệm kỳ tổng thống của Barack Obama không chỉ gây căng thẳng cho nước Mỹ mà còn phá vỡ cấu trúc xã hội, làm gia tăng sự chia rẽ chính trị khiến cho sự phân cực sâu sắc ngày nay trở nên khó tránh khỏi.


(Stephen Soukup, American Greatness, 9/8/2025)

Một ngày nào đó, khi thế hệ trẻ Mỹ ngày nay nhìn lại đất nước mình với sự phẫn nộ - và tin tôi đi, họ sẽ phẫn nộ - họ sẽ có thể đổ lỗi cho bất kỳ thủ phạm nào cho tình trạng đáng buồn này. Tuy nhiên, nếu có công lý nào trên đời này, họ sẽ đổ hết sự phẫn nộ và thất vọng của mình lên một người: Barack Obama. Mặc dù Hoa Kỳ (và phương Tây nói chung) đã trôi dạt đến bờ vực sụp đổ trong nhiều thập kỷ, nhưng những nỗ lực của Obama nhằm "biến đổi tận gốc" đất nước, nhìn lại, lại chính là giọt nước tràn ly.

Bây giờ, để nói rõ, tôi không đề cập đến điều gì đó nhỏ nhặt và vô nghĩa như chính sách, đối ngoại hay đối nội. Như Tổng thống Trump và Biden đã chứng minh rõ ràng, chính sách có thể được thay đổi và sau đó thay đổi lại, hết lần này đến lần khác. Chắc chắn, tác động của những thay đổi này có thể có hại và chúng có thể tạo ra những kết quả khác biệt đáng kể so với những gì đã xảy ra nếu không có chúng. Tuy nhiên, phần lớn, tác động của những thay đổi chính sách là hạn chế và nếu được sửa chữa, thì chỉ là tạm thời. Ví dụ, Obama có thể đã khiến toàn bộ Trung Đông rơi vào tình trạng hỗn loạn và đe dọa tương lai của hành tinh bằng chính sách xoa dịu các giáo sĩ Hồi giáo Iran, nhưng Benjamin Netanyahu và Donald Trump, cùng với họ, đã khắc phục hầu hết thiệt hại đó và đưa khu vực trở lại nguyên trạng trước Obama.

Và tôi cũng không đề cập đến vai trò không thể chối cãi và đáng lo ngại của Obama trong âm mưu phá hoại chiến dịch tranh cử năm 2016 của Donald Trump (và cuối cùng là chức tổng thống của ông) bằng cách tô vẽ ông như một điệp viên chịu ảnh hưởng của Nga. Vụ bê bối Russia-gate thật xấu xí và xảo trá, và một số lượng lớn những người tham gia - có lẽ bao gồm cả Obama - cần phải chịu trách nhiệm về những gì họ đã làm và cách họ thao túng bộ máy tình báo quốc gia để phục vụ cho các mục đích chính trị đảng phái. Một số trong số họ - có lẽ bao gồm cả Obama - đáng phải ngồi tù suốt phần đời còn lại. "Vụ bê bối" này nghiêm trọng hơn nhiều và gian trá hơn nhiều so với bất kỳ vụ bê bối nào khác trong lịch sử Hoa Kỳ - ngoại trừ, có lẽ, vụ bê bối về việc gán cho người dân Mỹ một vị tổng thống thiếu năng lực và thiếu mạch lạc trong suốt bốn năm, trong khi những người khác, vẫn chưa được nêu tên, đã điều hành đất nước một cách lén lút.

Tuy nhiên, hành vi phạm tội thực sự của Obama thậm chí còn đáng lên án hơn.

Như tôi đã lập luận trên các trang này và ở những nơi khác, không ai trong số những người đáng phải ngồi tù vì những tội ác liên quan đến các vụ bê bối nêu trên sẽ thực sự phải chịu án tù. Một số ít nhân vật nhỏ hơn có thể phải trả một cái giá rất nhỏ cho sự dính líu của họ, nhưng không một nhân vật lớn nào, những người đã đưa ra những quyết định quan trọng và phạm phải những tội ác nghiêm trọng, sẽ phải chịu án tù. Đất nước ngày nay đơn giản là quá chia rẽ, quá chia rẽ sâu sắc theo các đường lối đảng phái và tư tưởng đến mức hình phạt nghiêm khắc, chứ đừng nói đến việc thừa nhận tội lỗi rộng rãi, sẽ không bao giờ trở thành một kết quả thực tế. Bất kể tài liệu, cuộc điều tra hay lời khai nào có thể chứng minh một cách thuyết phục, khoảng một nửa đất nước sẽ từ chối tin vào điều đó, bao gồm cả nhiều đại biểu dân cử. Ngay cả khi tội lỗi của họ có thể được chứng minh vượt lên mọi nghi ngờ hợp lý, thì cả Hillary Clinton, Barack Obama hay bất kỳ ai khác có tầm quan trọng, cũng sẽ không bao giờ phải trả một cái giá đáng kể cho hành động của họ. Ngày nay, mọi thứ đều mang tính chính trị, và ranh giới chính trị không thể bị vượt qua, bất kể việc vượt qua những ranh giới đó có quan trọng đến đâu đối với tương lai của đất nước.

Và theo nghĩa thực tế, Barack Obama phải chịu trách nhiệm về điều này.

Sự phát triển của Nhà nước toàn trị - nhà nước không còn thừa nhận bất cứ điều gì là phi chính trị - nhìn chung có nguồn gốc từ thời Khai sáng và sự thúc đẩy của "chủ nghĩa tự do". Từ thời điểm đó trở đi, những vấn đề từng do gia đình và cộng đồng giải quyết dần dần trở thành phạm vi quản lý của chính phủ và cuối cùng là các nhà nước tập quyền.

Russell Kirk, một nhà văn lỗi lạc, từng nhận định rằng: “Toàn bộ lịch sử, đặc biệt là lịch sử hiện đại, theo một nghĩa nào đó, là sự suy tàn của cộng đồng và hậu quả của sự mất mát đó.” Phần lớn “sự suy tàn” đó có thể được quy cho sự tập trung quyền lực vào tay nhà nước tập quyền và sự mở rộng thẩm quyền của nhà nước đó đến mọi khía cạnh của đời sống con người. Không có định nghĩa chuẩn mực nào cho sự khởi đầu của “lịch sử hiện đại”, mặc dù thời kỳ Khai sáng được coi là một mốc thời gian khởi đầu hợp lý, xét đến những tư tưởng, hệ tư tưởng và các kế hoạch đạo đức cách mạng của nó. Những tư tưởng, hệ tư tưởng và kế hoạch đó đã đẩy nhanh quá trình hủy diệt cộng đồng và khiến sự trỗi dậy của Nhà nước Toàn trị gần như là điều không thể tránh khỏi.

Ở châu Âu, Nhà nước Toàn trị phát triển đều đặn trong suốt thế kỷ 19, phối hợp với nhà nước dân tộc và là kết quả của sự củng cố các hệ tư tưởng cánh tả. Tuy nhiên, Chiến tranh Thế giới thứ nhất đã đánh dấu ranh giới phân chia cái cũ với cái mới và báo hiệu sự không thể tránh khỏi của Nhà nước Toàn trị (và sự tàn sát đi kèm với sự suy thoái từ nền dân chủ có chủ quyền sang chế độ độc tài có chủ quyền).

Ngược lại, tại Hoa Kỳ, sự trượt dốc vào Nhà nước Toàn trị phần lớn diễn ra theo từng giai đoạn—bốn giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên trong số đó là sự ra đời của Thời đại Cấp tiến. Phong trào Cấp tiến, ít nhiều, là sự chính trị hóa chủ nghĩa mộ đạo Tin lành. Những người Cấp tiến—đặc biệt là những người đỡ đầu trí thức của họ, Richard Ely và người học trò của ông là Woodrow Wilson—là những người ủng hộ cái gọi là Phúc âm Xã hội, một phong trào tôn giáo được tạo ra bởi Đại Thức Tỉnh lần thứ hai (Second Great Awakening), cho rằng nhà nước có thể và nên được khai thác để giải quyết các vấn đề của xã hội và làm cho sự tồn tại của con người "giống Chúa Kitô" hơn. Chủ nghĩa Cấp tiến được xây dựng trên nền tảng này và phần lớn đã thành công trong việc làm cho nhà nước Hoa Kỳ giống tôn giáo hơn, đồng thời cũng làm cho đạo Tin lành Hoa Kỳ giống nhà nước hơn. Thiệt hại gây ra cho nền cộng hòa lập hiến trong Thời đại Cấp tiến là không thể tính toán được và vẫn còn cảm nhận được cho đến ngày nay.

Giai đoạn thứ hai trong quá trình phát triển của Nhà nước Toàn diện Hoa Kỳ là Chính sách Kinh tế Mới. Hoover và sau đó là FDR đã mở rộng đáng kể quy mô và phạm vi của nhà nước, trao cho nó quyền lực gần như vô hạn để tác động đến cuộc sống hàng ngày của người dân, những người đã trở thành thần dân. Những khía cạnh của các cộng đồng Mỹ tiền hiện đại không bị phá hủy bởi các cải cách Cấp tiến cuối cùng đã bị Chính sách Kinh tế Mới xóa bỏ. Khi Thế chiến II kết thúc, nhà nước Mỹ tập trung đã thống trị cả trong và ngoài nước, và không ai có thể thách thức quyền lực của nó.

Giai đoạn thứ ba của Nhà nước Toàn trị Hoa Kỳ bắt đầu với sự củng cố quyền lực của cánh tả văn hóa trong những năm 1960. Đảng Dân chủ Mới và các chương trình nghị sự chống chiến tranh, chống chế độ hiện hành của họ đã nghiền nát những gì còn sót lại của văn hóa, biến mọi thứ trong cuộc sống con người thành đối tượng của chính trị. "Cá nhân là chính trị" (The personal is political), văn hóa cánh tả khăng khăng, và sau đó, họ đã làm hết sức mình để đảm bảo điều đó.

Cuối cùng, vào năm 2008, với sự xuất hiện của kỷ nguyên “Hy vọng và Thay đổi” (Hope and Change - khẩu hiệu của Obama), người Mỹ được ngầm cho phép ghét bỏ lẫn nhau vì những “giá trị” khác biệt và chỉ coi nhau là bạn bè hay kẻ thù theo những giá trị đó. Thay vì coi cuộc bầu cử của mình là một thành tựu to lớn về chủng tộc, một sự cứu rỗi thiết yếu cho lịch sử chủng tộc lâu dài và đen tối của quốc gia, Obama lại chọn cách chỉ trích những người không giống ông và biến họ thành “kẻ khác” về mặt xã hội học. Ông kêu gọi những người ủng hộ mình “chiến đấu” với các đối thủ chính trị, “hạ mình” khi họ “lên cao”, và “đáp trả gấp đôi” khi đối mặt với những đối thủ phản đối những tuyên bố về sự vượt trội về đạo đức của họ. Ông và chính quyền của mình yêu cầu những người ủng hộ biến các buổi họp mặt gia đình thành những cuộc tranh luận/cãi cọ về chính sách. Ông chế giễu đối thủ một cách không thương tiếc và khuyến khích “đội ngũ” của mình cười nhạo họ và coi họ là “kém cỏi”. Tóm lại, Obama đã biến sự suy thoái về chính trị và văn hóa của hai thế kỷ trước thành sự thừa nhận và áp dụng “sự hủy hoại” đó một cách có thể chấp nhận được về mặt xã hội, nếu không muốn nói là bắt buộc về mặt xã hội.

Như tôi đã nói ở trên, Obama đã đến Phòng Bầu dục và cố tình thêm thật nhiều nước vào cái gánh nặng đã quá tải để có thể bẻ gãy nó.

Nhiều nhà quan sát chính trị ngày nay cho rằng Donald Trump là chính trị gia quyết liệt và không khoan nhượng nhất trong lịch sử nước Mỹ. Tuy nhiên, dù ông ta có là ai đi nữa, Trump trước hết và trên hết vẫn là phản ứng trước hành động của Obama. Trump, một chính trị gia, không phải sinh ra từ vầng trán của cha mình, hoàn chỉnh như Athena. Ông ta được hình thành theo thời gian, giống như phần còn lại của Nhà nước Toàn trị Hoa Kỳ.

https://amgreatness.com/2025/08/09/thanks-obama/

NVV dịch