2022-07-04
BÊN LỀ BÀ ROE ÔNG WADE
Lời nói đầu:
Án lệnh mới nhất Dobbs v. Jackson Women’s Health Organization gián
tiếp thu hồi án lệ Roe v. Wade hôm 24/6/2022 sẽ mở màn cho nhiều tranh
cãi trong giới chuyên môn, chính khách và các nhóm dân khác nhau, trong
đó không ít cãi vã giữa thành viên trong gia đình. Xin được đóng góp
thêm một ít câu chuyện bên lề giúp quý độc giả có thêm chút hành trang
trong nhiều tháng, năm sắp tới.
Để
câu chuyện được đầy đủ, và hào hứng xin mời quý độc giả theo bánh xe
lãng tử quay về thời lập quốc khi bản Hiến Pháp được hình thành. Thời
lập quốc, dân Mỹ là thứ tạp chủng, di dân từ Âu châu sang lập nghiệp
cũng như tìm tự do tín ngưỡng. Họ chán ngấy thể chế vua quan, quý tộc ỷ
thế mạnh và học thức để bóc lột người dân cô thế. Vì thế Hiến Pháp Hoa
Kỳ được các đại biểu soạn thảo trong nhiều năm qua nhiều cuộc hội thảo
(convention) tại 13 tiểu bang nguyên thủy. Cuối cùng qua nhiều thỏa
thuận giữa 13 tiểu bang, bản văn kiện pháp lý này được ký kết và trở
thành bộ luật tối cao của lãnh thổ Hoa Kỳ năm 1789. Trải qua 233 năm,
bản Hiến Pháp Hoa Kỳ được nhiều quốc gia trẻ hơn tham khảo và dựa theo
khá nhiều. Hiến Pháp Hoa Kỳ là một văn kiện pháp lý tiến bộ đi trước
nhân loại cả trăm năm tạo nên nền móng văn minh của thể chế dân chủ
đương thời.
Thời
gian này cái nôi của nhân loại tại Âu châu vẫn còn chế độ quân chủ, độc
tài và bạo quyền, điển hình là Hoàng đế Louis XVI với Hoàng hậu Marie
Antoinette. Các tổ phụ lập quốc đã táo bạo tạo ra một thử nghiệm thể chế
dân chủ vĩ đại đầu tiên khi chia đều quyền lực của guồng máy cai trị
trung ương (federal) thành 3 ngành; cho phép công dân được quyền lựa
chọn lãnh đạo và ấn định thời gian quyền hành (election). Quyền lực tối
cao nằm ở các đơn vị địa phương (state) và công dân nơi họ cư ngụ. Hiến
Pháp Hoa Kỳ cũng rất linh động bằng cách cho phép được sửa và bổ túc
nhằm tạo thêm những cân bằng quyền lực xen lẫn nhau hòng bảo vệ và đề
cao quyền tự do của mỗi cá nhân (personal liberty). Tuy nhiên Hiến Pháp
Mỹ không hoàn hảo. Vì thế các tổ phụ đã đề cao tính uyển chuyển, cho
phép Hiến Pháp Hoa Kỳ được bổ túc những thiếu sót bằng những Tu Chính
Án. Nghĩa là cho đến nay nếu trong 27 Tu Chính Án và Hiến Pháp không nêu
điều khoản nào thì vấn đề đó không phải là luật. Và ngược lại nếu Hiến
Pháp chưa đủ thì cần được tu chính thêm. Nói một cách khác, Hiến Pháp
không đặt vấn đề loại bỏ bào thai thành quyền của công dân. Cho nên muốn
loại bỏ bào thai, Hiến Pháp cần phải tu chính lại.
Vậy
tại sao quyền phá thai trở thành án lệ từ năm 1973 qua phán quyết Roe
v. Wade? Đã có hàng trăm luật gia (juris), học giả và sinh viên luật
khoa tranh luận và phổ biến thành sách giáo khoa, tạp chí chuyên ngành
luật và sách cũng như nhật báo viết bằng ngôn ngữ tiểu học để người bình
thường có thể tham khảo gần nửa thế kỷ nay. Phần lớn các tranh cãi về
luật học tại Hoa Kỳ chia làm hai khuynh hướng: bảo thủ (conservatism) và
cấp tiến (liberalism). Khuynh hướng bảo thủ theo chủ thuyết textualism
và originalism. Textualism cho rằng Hiến Pháp và các văn bản pháp lý
thời lập quốc cần được hiểu và dịch thuật theo đúng ý nghĩa của các từ
trong khuôn khổ luật pháp. Một số lớn thẩm phán và các nhà uyên bác Hiến
Pháp Mỹ (Constitutional scholar) lại cho rằng Hiến Pháp là văn bản pháp
lý linh thiêng nhất của quốc gia, diễn giải các từ ngữ cần phải giữ
đúng với nghĩa ban đầu khi các cha già lập quốc viết xuống, không thể
suy diễn theo ý người đọc. Đó là chủ thuyết originalism.
Người
Mỹ luôn tự hào về bản Hiến Pháp và họ cho đó là một thử nghiệm trong
cuộc thực thi thể chế dân chủ (an experiment of democracy) sinh động và
uyển chuyển trong xã hội hơn 200 năm qua. Vì vậy, Hiến Pháp cũng cần
phải được linh động với thời gian. Phái cấp tiến chủ trương diễn giải
Hiến Pháp linh hoạt hơn cho kịp bước tiến và nhu cầu của xã hội văn minh
mới.
Hôm nay chúng ta tìm hiểu thêm về phán quyết này dưới khía cạnh chính trị và những chuyện ngoài lề khác.
Kể
từ khi TP Thomas được đề cử vào TCPV năm 1991 cho đến nay thì tất cả
các ứng viên bảo thủ được đề cử vào TCPV đều bị phe DC hạch hỏi về ý
định và các phán quyết trong tương lai đối với án lệ Roe v. Wade 1973.
Án lệ này được coi như là câu hỏi “job interview” vào TCPV khiến người
ta tự hỏi nền tảng của phán quyết này có cái gì không ổn hay sao mà lo
ngại mãi. Khác với truyền thông và chính khách DC khăng khăng khẳng
định đây là đạo luật vững vàng in rõ trong bản Hiến Pháp từ nửa thế kỷ
nay, không chi có thể thay đổi được. Tôi lại trộm nghĩ, đảng cấp tiến
này có tật giật mình như thể một cô gái lỡ dại, muốn giấu chuyện vụng
trộm với cha mẹ nên ngày đêm cứ hỏi “Anh ơi, cái bụng em nó có to
chưa?”.
Vậy án lệ này sai ở chỗ nào mà các thành viên cấp tiến “ăn cơm thịt bò, nằm lo ngay ngáy”?
Nền
tảng của phán quyết năm 1973 dựa theo cảm tính của một số thẩm phán cấp
tiến và cán cân nghiêng về phía liberal. Do áp lực mạnh từ các phong
trào xã hội và cách diễn giải theo quan điểm cấp tiến, Hiến Pháp Hoa Kỳ
bị ép phải uyển chuyển chạy theo nhu cầu của xã hội cấp tiến hậu chính
sách Great Society của TT Johnson. Năm 1992, trong phiên xử Planned
Parenthood v. Casey, TCPV đã bác bỏ một phần quyết định trong án lệ Roe
v. Wade vì cho rằng lập luận khung luật ấn định của 3 tháng thai kỳ
(trimester framework) đã vi phạm Hiến Pháp, cần phải rút lại. TCPV năm
1973 đã đi quá xa quyền của ngành Tư Pháp khi tạo nên khung luật 3 tháng
thai kỳ mà trước đây chưa có trong Hiến Pháp cũng như các Tu Chính Án.
Nhiệm vụ của TCPV là giải thích Hiến Pháp và kiểm soát ngành Tư Pháp thi
hành có đúng thủ tục hay không. Việc tạo khung luật mới thuộc về thẩm
quyền của ngành Lập Pháp.
Ngày
24/6/2022, TCPV một lần nữa ra phán quyết Dobbs v. Women’s Health
Organization là vi hiến vì quyền phá thai không nằm trong truyền thống
và lịch sử lâu đời của tổ quốc cũng như phá thai không được coi là
quyền cần bảo vệ khi Thủ Tục Tố Tụng Pháp Lý được ban hành năm 1868 qua
Tu Chính Án thứ 14 (the right to abortion was not "deeply rooted in this
Nation's history or tradition" nor considered a right when the Due
Process Clause was ratified in 1868). Đây là lý do tại sao cánh tả cấp
tiến thù ghét những luật gia theo trường phái bảo thủ textualism và
originalism vì họ giữ lập trường chính đáng trong việc bảo Hiến. Nghĩa
là án lệ Roe v. Wade được xây dựng trái với quy định nền tảng tam quyền
phân lập từ nửa thế kỷ nay.
Tại
sao một phán quyết quan trọng nhưng đầy nghi vấn lại được TCPV ban hành
năm 1973 đã tồn tại trải qua nhiều đời tổng thống và thẩm phán với
nhiều quan điểm khác nhau?
Việc
gián tiếp thu hồi phán quyết Roe v. Wade cũ xảy ra đúng lúc và đúng
người. TP Blackmun là tác giả của quyết định nhóm đa số ủng hộ cho việc
phá thai trong án lệnh Roe v. Wade với khung luật trimester framework.
Tuy được TT Nixon đề cử nhưng ông ta không phải là người đầu tiên được
TT Nixon chọn. Nixon gặp nhiều trở ngại trong việc bổ nhiệm thẩm phán
thay thế ghế của TP Abe Fortas. Hai người được đề cử trước TP Blackmun
bị Thượng viện bác. TT Nixon buộc phải chọn TP Blackmun tuy là người CH
nhưng có lập trường cấp tiến. Tuy Roe v. Wade trở thành án lệ nhưng
những tranh cãi về việc phá thai vẫn tiếp tục xảy ra:
- 1/7/1976
Planned Parenthood v. Danforth: TCPV bác bỏ luật của Missouri đòi phụ
nữ có chồng phải hỏi ý ông ta trong quyết định phá thai. Vụ này chỉ nhấn
mạnh vấn đề riêng tư về sức khỏe (privacy on healthcare).
- 30/6/1980:
Harris v. McRae: TCPV buộc tất cả phải tôn trọng đạo luật Hyde
Amendment, cấm dùng tiền chính phủ trong việc phá thai.
- 3/7/1989
Webster v. Reproductive Health Services: TCPV cấm không được dùng các
cỡ sở chính phủ cho các hoạt động phá thai. Bác sĩ phải thử nghiệm khả
năng sống sót của thai nhi ở mức 24 tuần.
- 25/6/1990 Hodgson v. Minnesota: TCPV bác điều kiện trẻ vị thành niên cần có sự đồng ý của cha mẹ khi đi phá thai.
Nhìn
chung thì các tranh cãi trước Planned Parenthood v. Casey 1992 chỉ xoay
quanh vấn đề privacy và ngân khoản đài thọ cho việc phá thai. Tại Hoa
Kỳ các vấn đề liên quan đến tính riêng tư và biệt lập được tôn trọng tối
đa cho nên Roe v. Wade vẫn còn tồn tại. Cho đến nhiều năm gần đây, các
nhà Lập Pháp DC tạo ra các đạo luật điên cuồng trong đó có luật phá thai
vô giới hạn phá vỡ luân thường đạo lý Hoa Kỳ khiến người dân không thể
chịu được. Ông Trump là kết quả của những chính sách điên rồ của đảng
DC. Ông ta có tầm nhìn xa và cho rằng Toà Bảo Hiến là nơi cần bảo vệ nếu
còn muốn giữ lại những giá trị của nền cộng hòa lâu dài cho đất nước.
Ngành Lập Pháp đã phân cực quá sâu đậm, các chính khách chỉ còn đặt
quyền lợi cá nhân và đảng phái trên quyền lợi chung của quốc gia. Nhờ sự
liều lĩnh có tính toán của TNS McConnell, TT Trump đã thành công trong
việc đề cử những thẩm phán cần thiết trong công việc bảo vệ Hiến Pháp và
các giá trị bảo thủ quan trọng.
Ngược
lại, phán quyết Roe v. Wade cũng là kết quả của những mưu tính đúng lúc
và đúng người của khối cấp tiến trong trào lưu cải cách văn hoá, bình
quyền trên màu da và giới tính và đẩy mạnh cuộc cách mạng dục tính, điển
hình là mùa hè thác loạn tại Woodstock, NY tháng 8/1969. Tháng 6/1969,
cô Norma McCorvey 21 tuổi, có thai đứa con thứ ba ngoài giá thú. Tưởng
cũng nên nhắc lại hai đứa con gái trước do hai người cha khác đã được cô
này cho người khác nuôi. Không phải là tình cờ cô Roe-Norma McCorvey
nghèo, trẻ tuổi và ít học được nhóm luật sư cấp tiến đại diện cho mình
trong vụ kiện vĩ đại, nhiêu khê, tốn kém cho những thủ tục kháng án, mà
chưa chắc đơn kháng án được thụ lý. Theo bà McCorvey kể lại sau này thì
bà ta không hề có mặt tham dự tại toà ngày nào, mọi thủ tục được hai
luật sư Weddington và Coffee đơn phương dàn xếp, nghĩa là nhóm luật sư
cấp tiến chỉ cần mượn tên của một người cho đúng thủ tục pháp lý còn thì
họ chủ động sắp xếp cho hợp với đường hướng chính trị (political
narrative) đã vạch sẵn.
Hai
luật sư Sarah Weddington và Linda Coffee vừa mới ra trường, có bằng
hành nghề khoảng 2 năm trước khi gặp cô McCorvey năm 1969. Họ là những
luật sư cấp tiến trẻ hoạt động mạnh trong lãnh vực tranh đấu cho nữ
quyền và những mục tiêu chính trị cấp tiến thời đó. Sau khi thành công
vụ kiện Roe v. Wade, bà Weddington trở nên nổi tiếng và trở thành dân
biểu tiểu bang TX địa hạt 37 từ 1973-1977. Bà được TT Carter chọn vào
nội các của chính phủ 1979-1981. Bà Coffee có một đời sống luật gia bình
thường sau vụ kiện này.
Luật
sư Weddington trong một cuộc phỏng vấn năm 1992 đã cho hay bà có thai
năm thứ ba của trường luật năm 1967 và bà đã bí mật đi phá thai trái
phép tại Mễ Tây Cơ. Tháng 11/ 2021 TCPV đồng ý thụ lý vụ Dobbs v.
Jackson Women’s Health Organization để có một quyết định chung rằng 24
tuần có phải là mốc quyết định trong Hiến Pháp cho việc phá thai toàn
quốc. Bà đã nhìn thấy những viên gạch cuối cùng giúp lý luận phá thai
Roe v. Wade trở nên hợp Hiến do công sáng tạo của mình bị tháo gỡ từ từ.
Có lẽ bà không chịu nổi được khi thấy sự thật, bà qua đời một tháng sau
đó.
Hai
luật sư Weddington và Coffee đã chuẩn bị rất kỹ trong việc chọn người
đâm đơn và tiên đoán trước Dallas sẽ là nơi họ sẽ thắng vì hội đồng thẩm
phán này thiên về cấp tiến. Họ đã thành công trong việc thuyết phục
được 3 chánh án địa hạt Dallas vì luật sư Coffee từng là phụ tá (law
clerk) cho một trong ba thẩm phán là bà Sarah Hughes trước đó vài năm.
Sau
khi thành công ở các toà kháng án ở dưới, cuối cùng vụ kiện Roe v. Wade
lên đến TCPV. Tại đây trong lần cãi lý (oral argument) thứ nhất, hai bà
luật sư trẻ và đẹp đã đánh bại biện lý địa hạt Dallas là ông Jay Floyd
vì may mắn bất ngờ. Ông Floyd không biết mắc chứng gì lại mở màn cãi lý
quan trọng nhất trong đời trước mặt các thẩm phán của Toà Bảo Hiến bằng
câu nói đùa ngớ ngẩn: "Mr. Chief Justice and may it please the Court.
It's an old joke, but when a man argues against two beautiful ladies
like this, they are going to have the last word”. Số phận của Roe v.
Wade đã được an bài từ đây! Năm 1972, bản ký chú giữa các thẩm phán với
nhau về quyết định chung cho vụ Roe v. Wade được viết bởi TP Douglas đã
bị rò rỉ cho báo Washington Post trước khi có phán quyết chung một năm
sau đó. Trước vụ rỉ tin năm nay thì từ 1852 các nhân viên của TCPV cũng
đã để lộ tin ra ngoài rất nhiều lần trong nhiều vụ kiện quan trọng như
Dred Scott v. Sanford, Roe v. Wade, Bush v. Gore…
Chín
vị thẩm phán thời đó gồm: Chánh thẩm phán Warren E. Burger, William O.
Douglas, William J. Brennen Jr., Potter Stewart, Thurgood Marshall,
Lewis F. Powell Jr., Harry Blackmun, Byron White và William Rehnquist.
Bảy vị đầu tiên chuẩn thuận phá thai hợp Hiến, hai vị sau cùng bất đồng.
TT Nixon đề cử Chánh TP Burger, TP Blackmun, Powell Jr., và Rehnquist.
TT Eisenhower đề cử TP Brennan, Stewart, TT Roosevelt đề cử TP Douglas.
TT Kennedy đề cử TP White, sau cùng TP Marshall được đề cử bởi TT
Johnson.
Mặc
dù đảng DC không ngớt ca tụng và tung hô TT Johnson là người đề cử TP
Marshall là người da đen đầu tiên vào TCPV, sự thật không phải vậy. TP
Marshall được Thượng viện phê chuẩn tỉ số là 69/11, trong lúc DC chiếm
áp đảo với số ghế là 64. CH chiếm 36 ghế. Có 37 TNS DC đồng ý, 10 chống,
17 không bỏ phiếu, nghĩa là chỉ có 37/64 DC thuận (58%), trong khi
32/36 CH thuận (89%). Thời điểm này việc bổ nhiệm nhân sự cần sự chuẩn
thuận của 60 TNS, Dân Chủ chiếm 64 ghế nhưng chỉ 58% TNS trong tổng số
64 TNS DC ủng hộ cho việc thẩm phán da đen đầu tiên được danh dự vào
TCPV. Mặc dù vậy, TP Marshall theo DC và ông ủng hộ mạnh việc diễn giải
luật theo phái cấp tiến (progressive liberal).
Thẩm
phán Douglas là người giữ nhiều kỷ lục: tại vị lâu nhất ở TCPV 36 năm
209 ngày, là thẩm phán ly dị vợ nhiều nhất, có nhiều tai tiếng nhất và
là thẩm phán cấp tiến nhất trong lịch sử TCPV theo tờ Time 24/11/1975.
TP Douglas là người thâm niên nhất cho nên tiếng nói của ông có nhiều
ảnh hưởng tại TCPV thời gian này. TP Douglas đến VN năm 1952 và đã gặp
già Hồ, sau đó trở thành thân hữu của TT Diệm. Sau khi TT Diệm bị ám
sát, TP Douglas trở thành người chống lại việc Hoa Kỳ dùng biện pháp
quân sự tại VN và lên án gay gắt mỗi khi cần TCPV giải quyết. TP Douglas
bị cả hai thành viên DC và CH đòi đàn hặc hai lần khác nhau vào năm
1953 do DB Wheeler (DC) và 1970 do lãnh tụ khối thiểu số Gerald Ford chủ
xướng. Có lẽ vì lý do này mà khối DC và TCPV đã khá mạnh tay đàn hặc
trả đũa lại TT Nixon mấy năm sau.
Thay cho lời kết xin được mượn lời viết bất đồng của TP Antonin Scalia trong phán quyết Planned Parenthood v. Casey 1992:
“The
States may, if they wish, permit abortion on demand, but the
Constitution does not require them to do so. The permissibility of
abortion, and the limitations upon it, are to be resolved like most
important questions in our democracy: by citizens trying to persuade one
another and then voting.”
Phán
quyết Roe v. Wade 1973 do TCPV tạo nên dưới nền tảng sai lệch Hiến
Pháp; vì thế TCPV của năm 2022 có quyền rút lại. Roe v. Wade không phải
là một “super stare decisis” để được duy trì, và Hiến Pháp cũng không
cho phép TCPV có quyền viết thêm Tu Chính Án mới. Quậy phá than khóc ích
gì!
Freedom Fighter
4/7/2022